Soạn văn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học hay, ngắn gọn
7/9/2023 9:16:34 PM
kienpv ...

Soạn bài Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học - Ngữ văn 12

Đề 1 (trang 132 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) được biểu hiện cụ thể ở những phương diện nào? Trình bày vắn tắt và nêu dẫn chứng minh họa.

Dàn ý:

Mở bài:

 

- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu và những sáng tác của ông.

- Nêu nhận định trong thơ Tố Hữu đậm chất dân tộc.

Thân bài:

- Nói qua về phong cách nghệ thuật cũng như đôi nét vè thơ ca của Tố Hữu.

- Giải thích như thế nào được gọi là tính dân tộc.

- Những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ ca Tố Hữu.

* Tính dân tộc biểu hiện trong nội dung

- Vẻ đẹp đặc trưng cho tâm hồn, cốt cách của dân tộc Việt Nam:

+ Tình cảm tha thiết gắn bó với cội nguồn, với quá khứ, không bao giờ quên một thời gian khổ: “Mình về mình có nhớ ta... nhìn sông nhớ nguồn”...

+ Tình cảm gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi, đồng cam cộng khổ: “Trám bùi để rụng...”, Ta đi ta nhớ những ngày... chăn sui đắp cùng”.

 

+ Tinh thần lạc quan cách mạng, niềm vui sống, yêu đời: “Gian nan đời vẫn... núi đèo”.

+ Tinh thần đoàn kết đồng lòng chung sức kháng chiến: “Nhớ khi giặc đến... cả chiến khu một lòng”.

+ Niềm tự hào dân tộc trước sự trưởng thành của Cách mạng: “Những đường Việt Bắc... mũ nan”.

+ Tính dân tộc còn được thể hiện qua việc Tố Hữu đề cập tới những phương diện đặc trưng nhất trong đời sống của con người Việt Nam như đời sống sinh hoạt “bát cơm sẻ nửa”, đời sống học tập “lớp học i tờ”, đời sống công tác “ngày tháng cơ quan”, đời sống lao động “chày đêm nện cối”...

+ Việt Bắc còn thể hiện thành công những bức tranh đặc trưng cho thiên nhiên dân tộc: “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, kỉ niệm về thiên nhiên hoa với người bên nhau qua bốn mùa độc đáo: “Rừng xanh hoa chuối...tiếng hát ân tình, thủy chung”, hình ảnh thiên nhiên gắn liền với những địa danh: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê...”

* Tính dân tộc biểu hiện ở phương diện nghệ thuật

- Tính dân tộc thể hiện ở thể thơ lục bát (thể thơ truyền thống của dân tộc), giọng thơ mềm mại, uyển chuyển, giàu tính nhạc, dễ đi vào lòng người.

- Tính dân tộc thể hiện qua hình thức đối đáp trong ca dao trữ tình truyền thống.

- Tính dân tộc thể hiện ở cách xưng hô: ta – mình mộc mạc, dân dã, thấm đượm nghĩa tình quân dân.

- Tính dân tộc thể hiện qua ngôn ngữ thuần Việt, giản dị, dễ thuộc, dễ nhớ. Hình ảnh thơ gần gũi, đời thường nhiều sức gợi.

- Tính dân tộc thể hiện qua tình yêu thiên nhiên, con ngườiViệt Bắc sâu nặng nghĩa tình.

Kết luận

Bài mẫu tham khảo:

Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ra ở Thừa Thiên Huế. Ông là đại biểu xuất sắc của thơ ca cách mạng và kháng chiến.

Cuối năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội sau chín năm kháng chiến gian khổ, trường kì. Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để ghi lại tình cảm và mối quan hệ gắn bó khăng khít, nghĩa tình sâu nặng giữa nhân dân Việt Bắc với cán bộ và chiến sĩ cách mạng. Cũng như và hơn hẳn nhiều bài thơ khác, bài thơ Việt Bắc mang tính dân tộc rất sâu đậm. Qua đoạn trích học trong SGK Ngữ văn 12, ta sẽ thấy được điều đó.

Tính dân tộc chính là tất cả những đặc điểm thuần Việt, gần gũi với tâm hồn người Việt Nam. Ở bài thơ này, tính dân tộc biểu hiện trên nhiều phương diện như: kết cấu, hình ảnh, thể thơ, giọng điệu.

Tính dân tộc của bài thơ Việt Bắc thể hiện trước hết ở kết cấu đối đáp kiểu ca dao giao duyên.

Rất nhiều bài ca dao xưa thường dùng kiểu đối đáp để diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình:

- Mình nói với ai mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ, thấy con mình bò

- Mình nói với ta mình chửa có chồng

Ta đi qua ngõ mình bồng con ra

Kiểu kết cấu đối đáp trong ca dao giao duyên là một kiểu kết cấu độc đáo để nhân vật trữ tình có thể vừa kể lể sự việc bộc lộ cảm xúc, thể hiện thái độ tình cảm với “đối phương” hoặc đối tượng được nói tới. Đây cũng là kiểu kết cấu tạo ra những khả năng vô hạn cho nhân vật trữ tình một “diện mạo” như ý muốn.

Tố Hữu đã vận dụng kiểu kết cấu tuyệt vời ấy trong một bài thơ mà mục đích của nó không phải để nói tới tình yêu của chàng - nàng, anh - em mà là một bài thơ ngợi ca mối quan hệ khăng khít gắn bó giữa chính phủ cách mạng và quê hương cách mạng với nhân dân Việt Bắc.

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng?

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người.

Ở đây 2 chữ “mình - ta” biến hóa chỉ là sự phân đôi của một chủ thể. Cái “tôi” trữ tình của nhà thơ tự tách mình ra, một phần tâm hồn đã “thấm đất Việt Bắc” đang tâm tình với người cán bộ về xuôi. Nhân vật trữ tình đã bộc lộ tâm trạng nhớ thương, tình cảm ân nghĩa thủy chung giữa cán bộ cách mạng và mảnh đất Việt Bắc. Mình - ta cùng nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”, nhớ những ngày tháng reo ca lớp học i tờ; nhớ những ngày liên hoan ngân núi rừng; nhớ những tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối, nhớ người mẹ nắng cháy lưng, cô em gái hái măng một mình, nhớ người đan nón, nhớ những đuốc sáng từng đoàn quân điệp điệp trùng trùng tiến bước nhau ra trận địa. Các tiếng mình - ta, các tiếng gọi, hỏi, đáp cứ liên tiếp, xoắn xuýt lấy nhau, gối lên nhau, liên tiếp như những đợt sóng cảm xúc không ngừng nghỉ.

Mình về mình có nhớ không

Mình đi có nhớ những ngày

Mình về có nhớ chiến khu

Mình về, rừng núi nhớ ai

Mình đi, có nhớ những nhà

“Mình - ta” điệp khúc đan xen tạo ra âm hưởng từ những đợt sóng hoài niệm, những vùng kí ức tươi đẹp về sống động như vừa mới diễn ra. Tất cả tỉ mỉ, cụ thể tới mức người đọc có thể hình dung và tái hiện từng đường nét, dáng vẻ của mảnh đất Việt Bắc và con người nơi đây.

Kiểu kết cấu đối đáp mình - ta được Tố Hữu vận dụng một cách độc đáo, sáng tạo. Nó tạo nên giọng điệu tâm tình ru vỗ lúc như thủ thỉ, tâm tình, lúc lắng sâu vào nỗi nhớ, niềm thương, lúc trào dâng như những đợt sóng cảm xúc ào ạt, dạt dào. Sử dụng kiểu đối đáp trong ca dao, người đọc cứ tự nhiên bước vào tác phẩm mà không bị vướng cản bởi câu chữ, ngôi từ. Giọng điệu ru vỗ tha thiết của bài thơ cứ tự nhiên khiến hồn người đọc hòa chung vào dòng cảm xúc của “mình-ta” lúc nào không hay.

Có thể nói, đối đáp đã trở thành một kiểu kết cấu mở, có khả năng bộc lộ, mời gọi cảm xúc hết lớp này đến lớp khác tưởng chừng như không có điểm dừng. Đây là kiểu kết cấu giúp cho nhân vật trữ tình có khoảng rộng để bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của mình. Và với mỗi người Việt Nam luôn tìm thấy cho mối liên hệ rất gần gũi khi bắt gặp kiểu kết cấu đối đáp này khi thưởng thức bài thơ Việt Bắc như họ đã từng được nghe trong những bài ca dao, từ thuở xa xưa.

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn biểu hiện ở thể thơ lục bát và tiết tấu mềm mại, nhịp nhàng của câu thơ.

Thể thơ lục bát là thể thơ gắn bó với dân tộc Việt Nam, được người Việt Nam sử dụng phổ biến nhất. Thể thơ này thường có tác dụng đặc biệt khi diễn tả tình cảm tha thiết, những nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, và khi bộc lộ nghĩa tình sâu nặng giữa các đối tượng và chủ thể trữ tình. Bởi vậy, ta không hề ngạc nhiên khi ca dao, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm đều rất thành công khi sử dụng thể thơ này.

Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát như một cách đắc địa, và đặc biệt thành công khi diễn tả nghĩa tình sâu sắc của cán bộ cách mạng với quê hương kháng chiến. Giả sử Tố Hữu dùng thể thơ ngũ ngôn, lục ngôn, hay thơ tám chữ trong bài thơ này thì chắc chắn cái vị ngọt ngào tình nghĩa của con người Việt Bắc, cái đằm thắm nhớ thương của những cán bộ cách mạng sẽ thật khó thể hiện.

Người đọc cảm nhận được nỗi xúc động, nghẹn ngào thực sự của “người đi - kẻ ở”:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta xưa trước mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.​

Những câu thơ lục bát khoa thai, nhịp nhàng đã có tác dụng đặc biệt trong việc khơi gợi cảm xúc của người đọc. Người đọc tự nhiên hòa nhịp cùng dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình, sống với nó, cùng thổn thức với nó. Từ rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; từ hoa chuối, hoa mơ, Ngòi Thia, sông Đáy đến Phủ Thông, đèo Giàng, tất cả đã làm cho con người nhớ thương da diết. Những hình ảnh ấy đã ăn sâu vào tâm khảm, trở thành “cõi nhớ” trong lòng mỗi người, đã từng gắn bó với Việt Bắc.

Chính thể thơ lục bát đã quyết định giọng điệu, tiết tấu của bài thơ. Tiết tấu của mỗi câu thơ trong Việt Bắc viết nhịp nhàng, thường có nhịp 2/2/2; 3/3; 2/2/2/2; 4/4. Chẳng hạn:

- Ở đâu u ám quân thù (2/2/2)

Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi (4/4)

- Mình đi mình lại nhớ mình (2/2/2)

Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu (4/4)

Nhịp thơ cũng chính là nhịp điệu cảm xúc, giúp cho những kỉ niệm được gợi dậy, vang ngân trong lòng người đi - kẻ ở và trong cả người thưởng thức. Những cặp lục bát bắt vần, thả nhịp đều đặn thiết tha. Cứ mỗi cặp lục bát lại điểm một nốt nhạc cảm xúc “có nhớ”. Những tiếng ấy lại liên hồi xô đuổi, dồn dập như những đợt sóng thương nhớ cồn cào:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”​

Việt Bắc hiện ra trong bức tranh toàn cảnh: con người nhiều dáng vẻ, không gian rộng lớn, thời gian bốn mùa được chắt lọc, dồn nén nổi bật sắc thái núi rừng Việt Bắc. Một cặp lục bát vẽ một bức tranh “hoa cùng người”. Bốn cặp lục bát kết thành bộ tự bình cân xứng cổ điển.

Bức tranh thiên nhiên được dệt bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ thấm đượm trên từng dáng người, từng màu hoa. Bức tranh được dệt bằng màu sắc của núi rừng tươi đẹp. Cảnh làm nền cho con người xuất hiện, bóng dáng con người lặng lẽ là điểm sáng sinh động trên các phòng thiên nhiên tươi thắm, hữu tình. Hoa và người hòa quyện vào nhau làm cho cảnh thêm tươi sáng. Bức tranh mùa đông đặc trưng bởi hoa chuối đỏ tươi, giữa thảm rừng trên đèo cao tỏa nắng, bóng dáng con người xuất hiện với nét riêng của vùng cao. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” tô đậm một nét rất đặc trưng của người Việt Bắc. Bức tranh mùa xuân được dệt bằng thảm hoa mơ và dáng người đan nón mềm mại đang “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hạ thêm long lanh bởi tiếng ve cùng hình ảnh lặng lẽ của “cô em gái hái măng một mình”. Và bức tranh mùa thu ấn tượng bởi ánh trăng thu hòa bình yên ả cùng tiếng hát ân tình thủy chung ngọt ngào. Chính thể thơ lục bát đã làm nên linh hồn bộ tranh tứ bình Việt Bắc. Nói sao cho hết những cảm xúc, nỗi nhớ niềm thương của con người được gửi gắm vào đó.

Bên cạnh đó, cấu trúc tiểu đối đồng loạt ở các câu hát đã tạo ra một bè trầm của âm hưởng thương nhớ trong lòng người đi, kẻ ở. Cấu tạo đối vừa tô đậm ý cho từng vế vừa mở ra ý ở ngoài lời. Những câu thơ cùng với tiết tấu của nó đã tạo ra ý nghĩa ở ngay khoảng trống giữa các từ, các câu hay giữa các đoạn thơ.

Có thể nói rằng, tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

b. Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền tây Bắc Bộ và những người đồng đội qua đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

...

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Dàn ý:

Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ cần phân tích.

- Dẫn dắt vấn đề.

Thân bài

* Khái quát chung: Đoạn thơ nói về tâm trạng của tác giả khi nhớ về thiên nhiên và con người miền Tây.

- Hai câu thơ đầu: nỗi nhớ mãnh liệt bật lên thành lời.

- Mười câu thơ tiếp: chặng đường hành quân gian khổ mà người lính vượt qua.

+ Thiên nhiên miền tây hùng vĩ, hiểm trở

+ Sự khốc liệt trên chặng đường hành quân.

+ Thiên nhiên miền tây hoang vu, dữ dội.

- Hai câu thơ kết: Nhớ về cảnh yên bình về một bản làng nơi đoàn binh Tây Tiến nghỉ chân.

* Nhận xét chung:

- Nội dung:

+ Tác giả ca ngợi nét đẹp độc đáo của thiên nhiên miền Tây: hùng vĩ, dữ dội, khắc nghiệt nhưng thơ mộng, mĩ lệ, tuyệt vời.

+ Tác giả ca ngợi lính Tây Tiến can trường, dũng cảm nhưng tâm hồn lãng mạn, trẻ trung, yêu đời.

- Nghệ thuật:

+ Cảm hứng hiện thực kết hợp cảm hứng lãng mạn nhưng chủ yếu là cảm hứng lãng mạn.

+ Khai thác tối đa thủ pháp đối lập.

+ Cách phối thanh bằng trắc tài tình.

+ Cách tạo từ độc đáo.

Kết bài: Cảm nghĩ chung về đoạn thơ.

Bài mẫu tham khảo:

Ai đã từng là người lính, ai đã từng đi qua một thời trận mạc trong lòng thường lưu giữ những kỉ niệm khó quên. Kỉ niệm ấy thao thức và sống dậy mỗi khi nhắc nhớ. Quang Dũng cũng vậy. Những năm tháng gắn bó với binh đoàn Tây Tiến anh hùng của người lính - nhà thơ này đã thôi thúc ông viết Tây Tiến - một bài thơ với những vần thơ đậm chất anh hùng ca bay lên từ hiện thực khốc liệt. Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!...

..,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nữa. Những tiếng "xa rồi Tây Tiến ơi" thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc.Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi.". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi  nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ấy có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật chơi vơi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài cái tình ấy trong câu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".

Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như một chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh đoàn quân mỏi giữa Sài Khao sương lấp – rất ấn tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, đêm hơi... khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ấn tượng nhiều chiều trong tâm trí người đọc. Cũng với hình ảnh đoàn quân cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Tố Hữu lại mở ra một trường liên tưởng khác:

Những đường Việt Bắc của ta,

Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay

Thiên nhiên như cùng hát lên, cùng âm điệu với khúc quân hành của người lính ra trận.

Còn với Quang Dũng, bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gian nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chinh gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thắm". Ta cũng thấy hiển hiện một lộ trình đầy gian lao, đầy bất ngờ, khi Quang Dũng viết: Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống. Đặc biệt hơn nữa, hình ảnh "Heo hút cồn mây, súng ngửi trời“ thì câu thơ không phải chỉ diễn tả bước gian lao trên đường hành quân đánh giặc mà ta còn thấy cả chất của lính, tính của lính qua sự liên tường bất ngờ mà thú vị: súng ngửi trời.

Biết bao nhiêu gian lao thử thách, vừa như muốn quật ngã người lính cách mạng, lại vừa như kích thích họ đi tới, dẫn tới của sự chinh phục. Cảnh rừng núi hiểm trở với dốc lên khúc khuỷu, với hun hút cồn mây, với độ cao thấp đến choáng ngợp của "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", thế mà hình ảnh của sự sống vẫn chợt hiện ra như tạo nên thế cân bằng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi'. Bên cái hiểm trở dữ dội của thiên nhiên là sự sống thanh bình của con người khiến cho giọng điệu và tâm tình trong thơ Quang Dũng chợt như mềm lại, tạo nên sự linh hoạt đã thành rất đỗi tài hoa trong bút pháp thể hiện:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét,

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

 Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh người lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phân tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích. Có người nhận định rằng với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng ngựời lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến gian lao mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta.

Đề 2 (trang 133 SGK Ngữ văn 12 Tập 1)

a. Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Dàn ý:

- Người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

- Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che dấu cái bi, nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng:

+ Hình ảnh những nấm mồ rái rác nơi biên cương, viễn xứ gợi một cảm xúc bi thương.

+ Hình ảnh “đời xanh” là biểu tượng cho tuổi trẻ đặt sau chữ “chẳng tiếc” thể hiện tinh thần tự nguyện, sẵn sàng vượt lên cái chết hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc.

- Bằng bút pháp lãng mạn nhà thơ đã khắc họa thành công bức chân dung tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến.

Bài mẫu tham khảo:

Sự nghiệp của Quang Dũng không phong phú, đồ sộ như nhiều nhà thơ khác, nhưng mỗi tác phẩm ông để lại đều khắc dấu ấn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nổi bật nhất là tác phẩm Tây Tiến. Qua những vần thơ đầy tinh tế mà cũng vô cùng chân thực, ông đã tái hiện thành công chân dung người lính, binh đoàn Tây Tiến.

Tây Tiến được sáng tác năm 1948, tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng rời binh đoàn Tây Tiến để nhận nhiệm vụ khác. Mặc dù đã rời binh đoàn, những nỗi nhớ, tình yêu với binh đoàn vẫn luôn tha thiết, nó đã giúp ông kết tinh nên tác phẩm nghệ thuật này. Bởi vậy, trong tác phẩm cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ tha thiết, sâu đậm.

Trong phần đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã tái hiện một thiên nhiên vừa hoang dã, bí ẩn vừa nên thơ trữ tình và thấp thoáng trong đó ta cũng thấy dáng hình binh đoàn Tây Tiến: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Câu thơ tái hiện chân thực cái chết của người lính trên đường hành quân, nhưng cách nói về cái chết của Quang Dũng rất đặc biệt. Ông diễn tả cái chết bằng hình ảnh “không bước nữa”, “bỏ quên đời” đó vừa là cách nói giảm nói tránh làm dịu bớt cảm giác đau thương mất mát, nhưng quan trọng hơn cách nói như vậy tạo nên giọng thơ gân guốc, rắn rỏi, ngang tàng. Không phải người lính không nhìn thấy những khó khăn nhưng họ dám chấp nhận đối diện với hiện thực. Bởi vậy, khắc họa những khó khăn gian khổ cũng là cách Quang Dũng tạo thử thách để nhận ra những phẩm chất đẹp đẽ của người lính.

Nếu như ở hai phần thơ đầu tiên mới chỉ là những nét vẽ hết sức ít ỏi về người lính, thì sang phần thứ ba, chân dung của họ mới thực sự được tái hiện chân thực, rõ nét.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Hai câu thơ đầu tiên đã chạm khắc nổi bật ngoại hình của người lính Tây Tiến. Câu thơ là sự phản ánh hết sức chân thực, những người lính không mọc tóc, người gầy yếu xanh xao do bệnh sốt rét rừng gây ra, cùng với sinh hoạt còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, cực khổ, chính những yếu tố đó đã khiến người lính có vẻ bề ngoài thật khác thường. Quang Dũng không tô vẽ hiện thực, mà ông phản ánh như đúng những gì nó diễn ra. Nhưng cái mà ông muốn nhấn mạnh không phải những gian khổ, khó khăn mà đó chỉ là những thử thách để thấy được bản lĩnh, sự phi thường của những người lính Tây Tiến. Bởi vậy, tác giả đã xây dựng hình ảnh đối lập với những khó khăn ấy chính là hình ảnh “dữ oai hùm” – thần thái oai phong, dữ dội và vô cùng anh dũng. Kết hợp với kiểu câu chủ động “không mọc tóc” tạo nên hơi thơ gân guốc, rắn rỏi, bản lĩnh hiên ngang, sẵn sàng vượt lên mọi khó khăn, gian khổ.

Đằng sau ngoại hình gai góc là một tâm hồn đầy mộng mơ, lãng mạn: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thớ thứ nhất đã nói lên khát vọng muôn đời của biết bao thế hệ, chính là giết giặc lập công. Ánh mắt ấy vừa chất chứa hờn căm với lũ giặc cướp nước, vừa hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng vùng lên chống lại kẻ thù. Nhưng bằng sự nhạy cảm, tinh tế của mình, Quang Dũng còn phát hiện được vẻ đẹp bề sâu, bề sau của người lính Tây Tiến, câu thơ thứ hai nhiều vần bằng, nhịp thơ trở nên trầm xuống, nhẹ nhàng hơn. Chữ “mơ” gói trong mình biết bao ý nghĩa, có thể là nỗi nhớ nhà da diết khắc khoải, cũng có thể là những ước mơ, khát vọng của người lính Tây Tiến. Bên cạnh nhiệm vụ lớn lao, chiến đấu vì Tổ quốc, người lính vẫn dành một góc nhỏ trong tâm hồn mình cho quê hương, gia đình. Giấc mơ của người lính đã hé lộ thế giới tâm hồn đầy lãng mạn, mộng mơ. Họ khác với những người lính nông dân, nhớ về những điều dung dị như: “Ruộng nương anh để bạn thân cày/ Gian nhà không mặc kệ gió lung lay/ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” (Đồng chí – Chính Hữu). Thì người lính xuất thân từ trí thức tiểu tư sản lại mơ về những “dáng kiều thơm” – dáng vẻ tha thướt của thiếu nữ Hà thành. Chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm động lực, sức mạnh chiến đấu trong họ.

Nhưng nổi bật và đẹp đẽ nhất là vẻ đẹp trong lý tưởng chiến đấu của họ:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Sử dụng bút pháp nhất quán từ đầu tác phẩm, đến đây tiếp tục là những khắc họa hết sức chân thực về cái chết của người lính. Hình ảnh “rải rác biên cương” vẽ ra không gian xa xôi, biên viễn nơi biên ải, ở đó biết bao chiến sĩ hi sinh, phải để lại thân xác nơi đất khách quê người. Có lẽ đây là câu thơ hiện thực trần trụi, đau đớn và xót xa nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Nhưng không vì thế mà câu thơ trở nên bi lụy, ngay sau đó, ông đã khẳng định “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Đời người chỉ có một lần “xanh” một lần tuổi trẻ đẹp đẽ, nhưng họ không hề tiếc nuối, họ sẵn sàng hi sinh vì mục đích cao cả, bởi nếu “ai cũng tiếc thì còn chi tổ quốc” (Thanh Thảo).

Hai câu thơ đã khắc họa đầy bi tráng về cái chết của người lính Tây Tiến:

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Cuộc sống chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn, khi các anh hi sinh, ngay cả những nghi thức tang lễ đơn giản nhất cũng không được cử hành, thay vào đó chỉ là manh áo bọc lấy thân rồi trở về với đất mẹ. Bằng tất cả sự yêu thương, cảm thông, trân trọng Quang Dũng đã nâng nó lên thành chiếc áo bào, khiến cái chết trở nên trang trọng hơn. Cùng với đó là sự sử dụng mật độ dày đặc các từ Hán Việt tạo nên sắc thái trang trọng, cổ kính và biến cái chết của người lính Tây Tiến vốn là sự hữu hạn trở thành sự sống vô hạn, bất tử. Hai chữ về đất đã giảm bớt sự đau buồn, cái chết trở nên nhẹ nhàng, thanh thản hơn. Và cuối cùng là khúc tráng ca của sông Mã đưa các anh trở về với đất mẹ. Động từ “gầm” vừa diễn tả nỗi đau đớn tột cùng chứa đựng trong đó cả sự uất hận, nghẹn ngào. Nhưng có bi mà không hề lụy, bởi nó không thê lương mà là một khúc tráng ca độc hành tiễn người lính về với đất mẹ thiên nhiên.

Với lớp ngôn từ tinh tế, chan chứa tình cảm cảm xúc, Quang Dũng đã tái hiện chân thực vẻ đẹp của người lính Tây Tiến. Họ hiện lên với những nét vẽ vừa chân thực, vừa lãng mạn, tài hoa. Nhưng nổi bật hơn cả là lòng yêu nước, sự anh dũng sẵn sàng hi sinh cho độc lập của đất nước. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng chính là vẻ đẹp chung của những người lính trong thời kì kháng chiến chống Mĩ oanh liệt, hào hùng.

b. Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng thiên nhiên và con người Việt Bắc trong đoạn thơ sau:

Ta về, mình có nhớ ta

...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Dàn ý:

* Nội dung: Cảnh và người ở mỗi cặp câu thơ lại có sắc thái riêng theo từng mùa tạo nên bức tranh tứ bình về hoa và người Việt Bắc.

- Mùa đông:

+ Cảnh hoa chuối đỏ tươi nổi bật lên nền xanh bát ngát.

+ Con người: đèo cao nắng ánh → con người lao động làm chủ núi rừng nơi đèo cao, ánh nắng mùa đông chiếu vào lưỡi dao cài thắt lưng của họ là lưỡi dao sáng đẹp nhất, lung linh nhất.

- Mùa xuân:

+ Cảnh: đảo ngữ “trắng rừng” nhấn mạnh vào sắc trắng dịu nhẹ, thanh khiết của hoa nở. Sắc trắng ấy không hề gợi cảm giác lạnh lẽo mà làm bừng sáng cả không gian. Sắc trắng ấy toát lên sức sống tràn trề của mùa xuân.

+ Con người: “Người đan nón chuốt từng sợi giang” → gợi đức tính chăm chỉ, bàn tay khéo léo, cẩn thận của con người Việt Bắc.

- Mùa hè:

+ Cảnh: âm thanh tiếng đặc trưng “tiếng ve kêu”, có màu sắc “vàng” của rừng phách, cách dùng từ “đổ” độc đáo:

=> Tác giả tái hiện bức tranh mùa hạ rộn ràng âm thanh, rực rỡ đầy sắc màu.

+ Con người: Cụm từ “cô em gái” gợi tình cảm yêu thương trìu mến của tác giả. Đặc biệt cụm từ “một mình” không gợi cảm giác cô đơn, héo hắt mà là phẩm chất chịu thương, chịu khó của con người Việt Bắc.

- Mùa thu

+ Cảnh: cảnh thu tràn ngập ánh trăng huyền diệu, không gian đêm rừng Việt Bắc không hề lạnh lẽo, rợn ngợp, mà kỳ ảo, thiêng liêng rất đỗi thi vị.

+ Con người: “Tiếng hát ân tình thủy chung” → Nội dung của lời hát cũng chính là tấm lòng của người hát. Qua lời hát thấy được phẩm chất chung thủy, giàu nghĩa tình của con người Việt Bắc. Cảnh và người có sự hài hòa, đồng điệu.

* Nghệ thuật:

- Hình thức: đối đáp

- Cách dùng từ của tác giả: “Hoa cùng người”.

=> Tác giả khắc sâu sự hòa điệu, soi chiếu, bổ sung lẫn nhau của cả hai: hoa tô điểm cho con người và con người làm cho hoa thêm sinh động. Bên cạnh đó, cụm từ “hoa cùng người” gợi ra cấu trúc câu đặc biệt cho đoạn thơ:

+ Dòng lục tác giả dùng cho nhớ hoa.

+ Dòng bát dành cho nhớ người.

Bài mẫu tham khảo:

Ân tình và chung thủy - đó là một nét đẹp trong rất nhiều nét đẹp của con người cách mạng. Nét đẹp ấy thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ta cũng bắt gặp nét đẹp ấy trong Việt Bắc của Tố Hữu. Tập trung, tiêu biểu nhất là ở đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta ...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"

Việt Bắc tràn đầy nỗi nhớ của người kháng chiến về xuôi với quê hương cách mạng trong mười lăm năm "thiết tha mặn nồng tình nghĩa. Biết bao chữ ''nhớ" vang lên trong bài thơ cùng với bao nhiêu nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ "mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'', nhớ những đêm "quân đi điệp điệp trùng trùng", nhớ "ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang" và cả "nhớ gì như nhớ người yêu"... Giữa rất nhiều nỗi nhớ ấy, hiện lên một nỗi nhớ vừa đằm thắm thiết tha lại vừa bâng khuâng man mác:

Ta về mình có nhớ ta...

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Mười câu thơ trên là đoạn thơ thứ năm của bài thơ Việt Bắc, tự nó đã có tính hoàn chỉnh. Đó là bức tranh toàn cảnh và tiêu biểu của Việt Bắc qua bốn mùa trong năm. Bức tranh ấy rực rỡ, tươi tắn nhưng cũng bâng khuâng, man mác vì nó được lọc qua nỗi nhớ của người về xuôi. Nỗi nhớ được bộc lộ tha thiết trong buổi chia tay:

Vẫn còn nội dung phía dưới, bạn hãy ấn nút để xem tiếp nhé...